Viện trưởng Công tố duy nhất ở Việt Nam, từng giải oan cho 30 người trong một vụ án

Last updated: January 30, 2025 at 9:22 am - Lượt Views: 1 views

  • Trương Hoàng: “Trước khi là K3 của 'Độc đạo', tôi đã bị cả showbiz tát”
  • Hoa hậu H'Hen Niê lần đầu công khai bạn trai sau nhiều năm giấu kín, một Á hậu vẫn không tin
  • Bản cầm ca ngát hương thời gian

  • Trong hệ thống Nhà nước hiện nay, Viện KSND các cấp thành lập khá muộn, vào năm 1960 với Viện trưởng đầu tiên là cụ Hoàng Quốc Việt. Trước đó, từ 1945 – 1958, việc truy tố các bị can dựa vào “công cáo ủy viên” hoặc “công tố ủy viên”.

    Tại Kỳ họp thứ 8 (tháng 4/1958), Quốc hội khóa I có quyết nghị thành lập hệ thống tòa án và hệ thống viện công tố; cả 2 tách khỏi Bộ Tư pháp với quyền hạn ngang bộ và trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Cụ Bùi Lâm được Quốc hội cử làm Viện trưởng Viện Công tố Trung ương.

    Với tên thật là Nguyễn Văn Di, cụ Bùi Lâm sinh năm 1905 tại xã Gia Hoà (Vụ Bản, Nam Định). Đầu những năm 20 thế kỷ XX, khi là thuỷ thủ trên các tàu buôn của Pháp, cụ tham gia đấu tranh đòi cải thiện điều kiện làm việc và đời sống.

    Viện trưởng Công tố duy nhất ở Việt Nam, từng giải oan cho 30 người trong một vụ án- Ảnh 1.

    Cố Viện trưởng Viện Công tố Trung ương Bùi Lâm. Ảnh: VKSND Tối cao.

    Khi đọc tờ báo Người cùng khổ xuất bản ở Pháp, cụ Bùi Lâm đến Paris tìm gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và được giúp đỡ trở thành nhà hoạt động cách mạng. Năm 1925, người thanh niên Bùi Lâm kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp và năm sau, được cử đi học tại Trường Phương Đông ở Maskva (Liên Xô cũ).

    Năm 1929, cụ Bùi Lâm về nước hoạt động nhưng bị địch bắt, từng chịu giam tại các nhà tù Côn Đảo, Buôn Ma Thuột, Sơn La, Hoả Lò (Hà Nội). Năm 1944, cụ trốn thoát khỏi nhà tù Hoả Lò, tiếp tục hoạt động cách mạng và giữ nhiều vị trí tại cơ quan tố tụng.

    Trong số các vụ án do cụ Bùi Lâm tham gia giải quyết, có vụ một dân quân tên Ngọ bị sát hại tại bến đò Đoan Vĩ (Ninh Bình) vào năm 1947. Thủ phạm là bảo vệ bến đò tên Thông, bị xác định lợi dụng vị trí của mình, “ngang ngược” tước đi tính mạng nạn nhân.

    Đáng chú ý, thủ phạm là người có “quan hệ họ hàng thân thiết” với nhiều lãnh đạo cấp cao thời đó. Do vậy, khi cụ Bùi Lâm với vai trò công cáo ủy viên tham gia giải quyết vụ án, đã nhận “hàng chục thư tay”, chưa kể nhiều người xin gặp riêng.

    Thậm chí, còn có những lời dọa nạt từ nhiều cấp “dội” xuống, nhưng các lực lượng dưới sự chỉ đạo của cụ Bùi Lâm vẫn giữ nghiêm kỷ cương, phá được vụ án và trừng trị nghiêm kẻ gây án.

    Một vụ khác, xảy ra năm 1953, khi nhiều cán bộ của ta bị bắt giữ, thủ tiêu tại Liên khu 4, nhưng hai linh mục người Pháp biết sự việc lại không khai báo. Cụ Bùi Lâm lúc đó đang công tác tại Liên khu 3, được điều động sang để giải quyết vụ án này. Theo hồ sơ, vụ án bế tắc suốt 2 tháng bởi hai linh mục người Pháp không hợp tác.

    Một hôm đang ở cùng nhau, thấy ngôi làng bên cạnh bị không quân Pháp ném bom dữ dội, cụ Bùi Lâm liền nói với họ: “Những nạn nhân đó là các sinh linh vô tội. Đứng trước Chúa, họ cũng trong sáng, thánh thiện chẳng kém các anh. Làm gì có tôn giáo nào dung túng cho việc sát nhân… Nếu Chúa có thật, các anh sẽ trả lời Người như thế nào về những việc làm của mình?”.

    Qua sự việc, hai linh mục người Pháp cảm phục cụ Bùi Lâm và khai ra các tình tiết. Vụ án do đó được làm sáng tỏ, tòa án Liên khu 4 phạt tử hình ba người cầm đầu gây ra vụ việc.

    Trả tự do 30 người trong một vụ án

    Thời gian kháng chiến chống Pháp, do điều kiện khó khăn nên hoạt động tố tụng bị đánh giá còn nhiều mặt hạn chế, thậm chí chưa theo kịp yêu cầu. Như năm 1952, TAND vùng bị tạm chiếm tỉnh Hà Đông xét xử Nguyễn Văn Xuân, cai bốt Đặng Xá. Dù người này ra đầu hàng, nhưng một thẩm phán kiêm công tố viên của chính quyền vẫn tuyên mức tử hình.

    Sau đó, bộ đội tấn công bốt Đặng Xá và bị chống cự quyết liệt. Khi hạ bốt, địch khai: “Cai Xuân đã ra hàng mà còn bị xử bắn nên chúng tôi phải chống cự đến cùng”.

    Do còn thiếu sót, Chính phủ tổng hợp kinh nghiệm đấu tranh của công tố, công an, toà án để rút kinh nghiệm và xác định cụ thể hơn chính sách trong giai đoạn mới. Đến năm 1958, Viện Công tố Trung ương được thành lập và cụ Bùi Lâm giữ chức Viện trưởng.

    Viện Công tố Trung ương sau đó phối hợp cùng công an, tòa án nhằm hoàn thiện chính sách xét xử, đảm bảo công bằng, khách quan. Đến giữa năm 1960, ở nhiều châu, huyện, viện công tố đã chuyển hẳn sang thực hiện chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát.

    Qua công tác giám sát xét xử, viện công tố/kiểm sát các cấp đã kháng nghị 16 vụ án sơ thẩm để tha tội cho những người thực hiện hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm không đáng kể hoặc giảm tội cho những trường hợp xử nặng; tăng hình phạt những trường hợp đã xử quá nhẹ.

    Đối với các án chung thẩm hoặc án đã có hiệu lực pháp luật, viện công tố đề nghị toà án xử “tiêu án” 15 vụ gồm 3 vụ oan và 12 vụ xử quá nặng. Ngoài ra, Viện Công tố Trung ương phối hợp với các cơ quan khác, chỉ đạo các tỉnh tiếp tục xem xét lại 365 trường hợp đã kết án, kể cả minh oan cho những trường hợp đã tử hình nhằm đảm bảo “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”.

    Điển hình hàng chục trường hợp bị kết án trong vụ giết người, phá hoại đường sắt ở Lạng Giang (Bắc Giang) từ năm 1955, sau nhiều năm vẫn không thể thi hành án. Năm 1960, một đoàn kiểm tra liên ngành được thành lập để điều tra lại vụ việc, phát hiện nhiều nghi vấn.

    Sau đó, một Ủy ban được thành lập để xem xét lại vụ án với các thành viên gồm Chánh án TAND Tối cao Phạm Văn Bạch; Viện trưởng Công tố Trung ương Bùi Lâm; Phó Chánh án Lê Giản.

    Ủy ban xác định, trong vụ chỉ có 3 bị cáo vì mâu thuẫn cá nhân nên sát hại một du kích; không có việc tụ tập phá hoại đường sắt Hà Nội – Mục Nam Quan như bản án đã tuyên năm 1955. Ủy ban do vậy thống nhất xóa các án tử hình, chỉ phạt tù 3 người sát hại du kích, còn 30 bị can khác được trả tự do.

    Theo đánh giá của Viện KSND Tối cao sau này, cụ Bùi Lâm là người “bản lĩnh, đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực với nhiệm vụ; là người gắn liền với sự hình thành của viện công tố các cấp – hình thức quá độ để xây dựng hệ thống Viện KSND các cấp”.

    Cụ Bùi Lâm sinh năm 1905, được kết nạp Đảng Cộng sản Pháp năm 1925. Năm 1929, cụ về nước hoạt động và sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, giữ nhiều vị trí trong hệ thống tòa án quân sự.

    Giai đoạn 1954 – 1958, cụ Bùi Lâm tham gia tiếp quản Thủ đô và giữ chức Vụ trưởng Vụ Hành chính Tư pháp thuộc Bộ Tư pháp. Khi thành lập Viện Công tố Trung ương năm 1958, cụ giữ chức Viện trưởng.

    Năm 1960, cụ Bùi Lâm được cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Bungari và năm 1964, giữ vị trí này tại Cộng hòa Dân chủ Đức.

    Năm 1967, Quốc hội bổ nhiệm cụ Bùi Lâm giữ chức Phó Viện trưởng Viện KSND Tối cao; Đảng cử làm Phó Bí thư Đảng đoàn Viện KNSD Tối cao.

    Cụ Bùi Lâm mất năm 1974 và hiện được đặt tên đường tại Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu, TP.HCM.

    *Bài viết có sử dụng tư liệu từ sách Lịch sử Viện KSND Việt Nam, NXB Sự Thật.

    Tin tức An ninh Xã hội tổng hợp mới nhất trong ngày
    Nguồn: Sưu Tầm Internet

    (x)
    (x)