Công chúng nhận thức về mùi hương ngoài bản năng tự nhiên, còn nhờ một kho tàng văn hóa hấp thụ từ những lời ca, gieo cấy vào trí nhớ những dáng hình của mùi hương, thứ tưởng chừng vô hình vô ảnh.
Về đây khi gió mùa thơm ngát
Từ những thuở trước, hương vị của ẩm thực đã là một thứ đi vào vốn văn hóa lưu truyền, như một chén trà nhất định phải được đánh giá bằng mùi thơm đặc trưng thể hiện sự lưu luyến của gặp gỡ: “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Ví von vẻ đẹp cốt cách con người cũng được ví với mùi thơm, như câu ca dao quen thuộc về hoa nhài hay hoa sen. Sự giao duyên nhiều khi cần đến ví von như câu hát quan họ “Hoa thơm bướm lượn”. Song phải đến khi trào lưu tân nhạc ra đời, cùng với Thơ Mới vào thập niên 1930, những nhận thức về hương thơm mới thành những kiểu cách đặc trưng mang tính giao tế phong phú.
Nhà thơ Xuân Diệu đã viết: “Ai đem phân chất một mùi hương? Hay bản cầm ca! Tôi chỉ thương. Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc. Như thuyền ngư phủ lạc trong sương”. Âm nhạc diễn tả cảm giác về hương thơm đã có mặt khá sớm trong những bài tân nhạc thời kỳ đầu và sau 90 năm, những ca từ lưu lại mùi hương, khi yêu kiều, khi mộc mạc, làm thành một bảo tàng sống động trong tình tự người Việt.
Các bài hát quen thuộc với người Việt phản ánh sự gắn bó mật thiết với cảnh quan thiên nhiên, ruộng đồng và những cơn gió, các yếu tố dẫn hương. Từ mùi hương lúa được mượn để nhắc lại những ký ức đồng nội, xuất hiện đậm đặc trong các bài hát thời kháng chiến chống Pháp, theo bước chân hành quân và tản cư về các vùng nông thôn. Mùi hương của nương lúa vùng cao: “Lúa ngát thơm trên những cánh nương, đây nhà nông phá rừng gây luống” (Nương chiều – Phạm Duy, năm 1947), hay cánh đồng làng sản xuất phục vụ kháng chiến: “Lúa, lúa vàng! Đồng lúa bát ngát trời. Bao tay liềm, từng nhánh lúa thơm rơi” (Ngày mùa -Văn Cao, 1948), “Từng nhánh lúa thơm rơm, lúa thương đời hòa bình” (Lúa vàng – Mặc Hi, 1949). Mộng ước ngày trở về hiện diện qua ký ức mùi hương gợi ấm no: “Nơi ấy có cánh đồng mênh mông ngát hương, mùa lúa chín tiếng hát vang khắp đường” (Quê hương anh bộ đội – Xuân Oanh, 1949).
Hương rừng gió núi của những vùng chiến khu đem lại ký ức thanh bình giữa cảnh bom đạn: “Hương rừng thoáng đưa hồn say sưa” (Nhạc rừng – Hoàng Việt, 1950) hay “Về đây khi gió mùa thơm ngát, ơi lũ chim giang hồ” (Đàn chim Việt – Văn Cao, 1946). Ký ức của mùi rừng này ba thập niên sau trở lại trong những bài hát theo chân người xây dựng đời sống mới ở những lâm trường: “Anh đi trong chập chùng, đôi chân ngát hương hoa rừng” (Hoàng hôn màu lá – Thanh Tùng) hay “Tôi đứng giữa ngàn xanh, mà say trong hương rừng” (Rừng chiều – Vũ Thanh).
Ký ức về cuộc chiến đã đi qua vẫn vấn vít hồn người khi gặp lại mùi hương gợi nhớ về tình yêu tuổi trẻ thời bom đạn: “Anh vẫn thấy mắt em trong lá tràm xanh ngát. Anh vẫn mang tình em trong hương tràm xôn xao” (Đi trong hương tràm – Thuận Yến, thơ Hoài Vũ, 1982). Mùi đồng quê gắn với sự tảo tần của người phụ nữ làm công việc cấy hái: “Mùi mạ non hương tóc em biết bao kỷ niệm. Nhắc lại thấy thương nghe thật buồn” (Hương tóc mạ non – Thanh Sơn). Thậm chí trong một khung cảnh mang đầy tính vị lai, nhạc sĩ còn có cảm xúc trước những mùi hương của thời đại công nghiệp hóa: “Nhịp nhàng phơi phới đẹp màu lúa mới, thoảng bay trong gió mùi xăng dầu gợi những ước mơ xa” (Tình yêu của đất và nước – Hoàng Vân, 1980).
Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu
Mùi hương không phụ lòng người tài, đã có thật nhiều bài ca hay ra đời từ ký ức của những mùi hương dẫu rất quen thuộc và đồng dạng với nhau.
Những tình tự hoài niệm từ mùi hương đã rộn ràng từ những bài hát huê tình thời tiền chiến. Mượn lời thi sĩ ghen với người tình, bài hát nói lên một khía cạnh quyến rũ của đời sống thị thành: “Tôi muốn mùi thơm của nước hoa mà cô thường hay xức chẳng bay xa, chẳng làm chẳng làm xao xuyến người qua lại, dẫu chỉ qua rồi khách lại qua” (Ghen – Trọng Khương, thơ Nguyễn Bính).
Nhưng nổi bật hơn cả chính là mùi hương những loài hoa thường gắn với khung cảnh có những nàng thơ kiều diễm. Mùi hoa luôn gợi cảm hứng về dĩ vãng, từ “Ngọc Lan! Trầm ngát thu hương, bờ xanh bóng dương, phút giây chìm sương” (Ngọc Lan – Dương Thiệu Tước) đến “Hoa lan hương màu trắng, như duyên em thầm kín, trong hương thu màu tím buồn” (Dạ lan hương – Đoàn Chuẩn và Từ Linh). Sự sang trọng của những mùi hương quý phái có ảnh hưởng từ văn hóa Pháp, những bài Thơ Mới và văn chương Tự lực văn đoàn, kết hợp với những bức tranh thiếu nữ bên hoa nổi tiếng của các họa sĩ Trường Mỹ thuật Đông Dương, tạo ra một ẩn ức ngát hương thời gian. Mỹ cảm này còn kéo dài đến thập niên 1990, khi những nhạc sĩ trẻ tiếp tục ngợi ca mùi hương gắn với quá khứ: “Và sẽ mãi mãi vì trái tim em đã trao gửi anh, tình nồng như thoáng hương ngọc lan” (Hương ngọc lan – Anh Quân, lời Dương Thụ).
Nếu những người miền Nam quen thuộc với câu ca “Đêm đêm ngửi mùi hương, mùi hoa sứ nhà nàng” (Hoa sứ nhà nàng – Hoàng Phương và Hoài Nam, 1968) thì họ cũng chia sẻ với người miền Bắc qua “hương bưởi thơm cho lòng bối rối, cô gái như chùm hoa lặng lẽ, nhờ hương thơm nói hộ tình yêu” (Hương thầm – Vũ Hoàng, thơ Phan Thị Thanh Nhàn, 1984).
Còn với người Hà Nội, những mùi hương hoa trong các bài ca về thành phố của họ làm nên diện mạo trong ký ức của nơi này. Cuộc điểm danh những mùi hoa là cuộc hoài niệm về “một thời đạn bom, một thời hòa bình” như lời ca nổi tiếng: “Nhớ phố Quang Trung, đường Nguyễn Du, những đêm hoa sữa thơm nồng” (Nhớ về Hà Nội – Hoàng Hiệp), “Em ơi Hà Nội phố! Ta còn em mùi hoàng lan, ta còn em mùi hoa sữa” (Em ơi Hà Nội phố – Phú Quang, thơ Phan Vũ). Mùi hương hoa ngự trị thực địa và ngự trị cả tâm trí người nghe khi họ tua lại băng ký ức của mình, như loài hoa sữa mang mùi hương đậm đặc: “Hoa sữa vẫn ngọt ngào đầu phố đêm đêm, có lẽ nào anh lại quên em” (Hoa sữa – Hồng Đăng), “Như hương hoa sữa nồng nàn đắm đuối, bước chân tôi qua bao nẻo đường, vẫn mong một ngày trở về quê hương” (Hà Nội và tôi – Lê Vinh), “Hoa sữa thôi rơi, em bên tôi một chiều tan lớp” (Hà Nội mùa vắng những cơn mưa – Trương Quý Hải, thơ Bùi Thanh Tuấn). Một cuộc hội tụ ký ức bằng một loại hoa đã thành ký ức tập thể, từ Mối tình đầu (Thế Duy, thơ Nguyễn Phan Hách) đến Hà Nội mùa hoa sữa (Nguyễn Chí Vũ, Nhật Tân) hay Hà Nội ơi thầm hát trong tôi (Phạm Minh Tuấn).
Mùi hương đã có một phương tiện đắc lực để tái hiện là những lời ca. Chúng chính là những cái cớ thuần hậu và êm ái để các nhạc sĩ viết về những kỷ niệm đẹp đẽ của những mối tình, những hứa hẹn mùa màng no ấm hay sự khoan khoái tận hưởng thiên nhiên.
Văn hóa – Giải trí | danviet.vn
Nguồn: Sưu tầm internet